II.
BINH-KHÍ CỔ-TRUYỀN
3 - Binh-Khí Cán Dài
ĐINH-BA
釘 鈀
« Đinh-Ba » (釘 鈀) là một loại binh-khí đã được xuất-hiện từ thời Tam-Quốc Chiến (220-280 sau CN) phôi-thai từ hai món binh-khí cổ xưa « Đảng » ( 鎲) và « Ba » (鈀) nên còn được gọi là « Đảng-Ba » (鎲 鈀).
Binh-khí « Đảng » ( 鎲) |
Binh-khí « Ba » (鈀) |
Binh-khí « Đinh-Ba » (釘 鈀) |
Đinh-Ba là thứ binh-khí gắn nhiều lưỡi và được gọi là « Xoa » (叉) ; nó gồm có ba loại :
1 - Đoản-Bính Xoa (cán ngắn khoảng 29 cm), thuộc về loại « Ám-Khí » ;
2 - Trung-Bính Xoa (cán vừa khoảng 1,5 m), được gọi là « Phi-Xoa » (飛 叉) ;
3 - Trường-Bính Xoa (cán dài từ 2m đến 2,40m), được gọi là «Tam-Đầu Xoa » (三 頭 叉) khi có gắn ba lưỡi - lưỡi chính giữa dài hơn hai lưỡi ở hai bên ít nhất 10cm - còn được định-danh là « Ngưu-Đầu Xoa » (牛 頭 叉), mà nước Đại-Việt gọi là « Đinh-Ba » (Skt. Trishula).
Người xưa còn phân-định hai loại Đinh-Ba « Tam-Đầu Xoa » (三 頭 叉) :
A) - Loại « Đinh-Ba Văn », gọi là « Văn Xoa » : đó là loại Đinh-Ba có ba lưỡi đều hướng về phía trước đằng Mũi Đinh-Ba ;
B) - Loại « Đinh-Ba Võ » gọi là « Võ Xoa » : đó là loại Đinh-Ba có hai lưỡi hướng về phía trước đằng Mũi Đinh-Ba và có một lưỡi hướng ngược về phía dưới gần Cán Đinh-Ba. Nó còn có tên gọi là « Linh-Nha-Tiên 靈 鴉 鞭 » ở Đại-Việt và « Nhạn-Linh Thương 鴈 靈 槍 » tại Trung-Hoa.
Đinh-Ba Thời Triều MINH (1368-1644) |
Đinh-Ba |
« Phi Xoa » |
« Tam-Đầu Xoa » |
« Ngưu-Giác Xoa »
(牛 角 叉)
(Tín-dụng Ảnh : ifl.co.kr)
Đinh-Ba thuộc về loại binh-khí dành cho Kỵ-binh và còn được gọi là «Mã-Xoa» (馬 叉) hay là «Tam-Đầu Xoa» (三 頭 叉), rất thông-dụng ở nước Đại-Việt, nhất là về thời Nhà LÊ Trung-hưng (1533~1789).
Môn-SInh Võ-Thuật Cổ-Truyền Việt-Nam cần biết phân-biệt cây Đinh-Ba nói trên với cây Chỉa Ba.
Chỉa Ba thuộc về loại binh-khí dành cho Bộ-binh và được gọi là « Tam-Cổ-Xoa » (三 股 叉).
Thạt ra, Chỉa Ba gồm có nhiều loại :
1 - Loại Chỉa Ba Đi Săn, dùng đánh Cọp & Beo ;
2 - Loại Chỉa Ba Đánh Trận, gọi là « Tam-Cổ-Xoa » và cũng được xếp vào hạng Quân Xoa 軍叉.
Chỉa Ba Đánh Trận - Tam-Cổ Xoa của Đại-Việt.
|
Chỉa Ba Đánh Trận « Tam-Cổ Xoa » của Trung-Hoa |
Chỉa Ba Đánh Trận « Tam-Cổ Xoa » của Đại-Việt
|
Chỉa Ba Đi Săn « Tam-Cổ Xoa » của Trung-Hoa |
Huấn-luyện-Viên Benoît ROUX
thao-diễn trên chiến-mã
|
Lão Võ-Sư Ngô-Bông thao-diễn
|
Ngoài ra, vào thời Triều Nhà TỐNG (960-1279) vầ Triều Nhà LÝ (1009-1225), người ta còn phối-hợp Đinh-Ba :
1 - với Siêu-Đao để biến-chế ra một thứ binh-khí có Ba Mũi Nhọn và Hai cạnh Bén mang tên là « Tam Tiêm Lưỡng Nhận Đao - 三 尖 兩 刀 » ;
2 - với Thương để biến-chế ra một thứ binh-khí có Ba Mũi Nhọn và Hai cạnh Bén mang tên là « Tam Tiêm Lưỡng Nhận Thương - 三 尖 兩 槍 ».
Tướng-Quân sử-dụng « Tam Tiêm Thương ». |
Tướng-Quân sử-dụng
|
« Tam-Tiêm Lưỡng-Nhận Đao »
(Đao có Ba Mũi Nhọn và Hai Cạnh Bén).
(Tín-dụng Ảnh : ashokaarts.com)
« Tam-Tiêm Lưỡng-Nhận Đao »
(Phục-chế để luyện-tập tại các Võ-Đường).
(Tín-dụng Ảnh : Brendan Lai's)
Đến cuối Thế-Kỷ 19, còn có một loại Binh-Khí khác cũng đã được chế-tác tại Đại-Việt :
- Hoặc bằng cách phối-hợp Ngọn Lao với Hai Lưỡi XÀ-MÂU Thời Cận-Đại và gia thêm Hai Móc Ngạnh sắc bén hướng ngược về Lao-Khố và được gọi là « Song-Mâu Xoa 雙 矛叉 ».
- Hoặc bằng cách phối-hợp Ngọn Lao với Lưỡi « Ngưu-Giác XOA - 牛 角 叉) » và gia thêm Hai Móc Ngạnh sắc bén hướng ngược về Lao-Khố và được gọi là « Lưỡng-Câu Tam-Cổ XOA - 兩 鉤 三 股 叉 ».
|
|
Tuy-nhiên các Loại Binh-Khí « Song-Mâu Xoa 雙 矛叉 » và « Lưỡng-Câu Tam-Cổ XOA - 兩 鉤 三 股 叉 » này được thiết-kế để dùng trang-hoàng Bảng Sưu-Tập Vũ-Khí Trung-Cổ đúng hơn là dùng cho chiến-trường.
(Còn tiếp...)
Ban Võ-Sư TRỊNH Quang Thắng |